Xã Cán Khê nằm ở phía Đông Bắc huyện Như Thanh, Cách trung tâm huyện 26km. xã giáp gianh với một số xã huyện bạn triệu sơn và các xã của huyện Như Thanh.
Phía Đông giáp xã Triệu Thành, xã Hợp Tiến huyện Triệu Sơn.
Phía Tây giáp Xuân Thọ( Như Thanh), xã Luận Thành(Thường Xuân), Xã Bình Sơn (Triệu Sơn)
Phía Nam giáp xã Phượng Nghi huyện Như Thanh.
Phía Bắc giáp xã Thọ Bình, Hợp Lý huyện Triệu Sơn.
Xã Cán Khê được hình thành trong thung lũng của 2 dãy núi: Đông gạo và Đông xưa, là vùng trung du miền núi thấp, dân cư phân bố chủ yếu dọc theo sườn núi đông xưa và đông gạo, một bộ phân dân cư nằm phía tây tiếp giáp với Xuân Thọ và xã Luận Thành huyện Thường xuân, xã có chiều dài là 5km chạy dọc theo tuyến đường 15B ( nay là tỉnh lộc 514) Điểm đầu từ cầu Bồng Sa thuộc địa phận thôn 13 xã cán Khê (Giáp xã hợp Tiến, Huyện Triệu Sơn) đến đỉnh dốc lừu xã Xuân Thọ huyện Như Thanh. Chiều rộng 4km chạy dọc theo đường liên huyện (Cán Khê- Như Thanh) từ Thôn 5 đến Thôn 12.
Có diện tích tự nhiên 2038,24ha. Trong đó: Đất Nông nghiệp là: 1762,71ha. Trong đó: Đất trồng Lúa nước 226,46ha; Đất trồng cây hàng năm 43,07ha; Đất trồng cây lâu năm 258,63ha; Đất rừng sản xuất 1200,68ha; Đất nuôi trồng thuỷ sản là 3,87ha; Đất phi nông nghiệp là 226,25ha; Đất thổ cử là 130,51ha; Đất xây dựng các cơ quan và công sở là 0,49ha; Đất nghĩa trang, nghĩa địa là 9,63ha. Đất có mặt nước chuyên dùng là 40,03ha; Đất phát triển hạ tầng là 85,59ha; Đất chưa sử dụng là 9,28ha; Đất khu dân cư nông thôn là 462,27ha.
Đồi núi chiếm 74% diện tích tự nhiên, do đó rất thuận lợi cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng cây ăn quả và chăn nuôi gia súc,gia cầm, cây luồng và các loại keo đang là một trong những cây chủ lực của địa phương, bên cạnh đó nhân dân đã chuyển đổi một số diện tích lâm nghiệp kém hiệu quả sang trồng mía nguyên liệu phục vụ cho cho công ty cổ phần mía đường Lam sơn, hàng năm nhân dân thu nhập hàng chục tỷ đồng. Tuyến đường tỉnh lộ 514 đi qua địa phận xã cũng là điều kiện thuận lợi cho việc đi lại cũng như giao thương hàng hóa, sản phẩm giữa miền núi và miền xuôi. Nhiều sản phẩm nông, lâm nghiệp địa phương đã có thương hiệu như: cây luồng, cây keo, chanh quả và một số loại cây cảnh...
Về văn hóa là địa phương có 4 dân tộc Thái, mường, kinh, thổ những nét văn hóa đặc trưng như hát khặp của đồng bào thái, hát xường, hát dân ca, hát ru của đồng bào mường, các làn điệu dân ca hát ví… của bà con người kinh, sắc màu của đồng bào Thổ, những trò chơi, trò diễn dân gian của các dân tộc đã hòa quyện vào nhau tạo thành âm hưởng trầm bổng du dương trong cuộc sống thường ngày, làm cho cuộc sống nơi đây mỗi một ngày một thêm sắc thái văn hóa mới.
Toàn xã có 1420 hộ, 5690 nhân khẩu được phân bố trên 13 thôn, Dân tộc Thái chiếm 19,7%, Dân tộc Mường chiếm 24,9%, Dân tộc Kinh chiếm 54,5%, Dân tộc Thổ chiếm 0,9%.
Lịch sử Cán khê gắn liền với lịch sử dân tộc việt nam, trải qua quá trình xây dựng và trưởng thành nhân dân các dân tộc xã Cán Khê đã vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ để khai thác tiềm năng đất đai làm ăn sinh sống. Từ khi chưa có Đảng lãnh đạo cuộc sống của người dân sống trong kiếp đời nô lệ, lầm than gông xiềng kìm kẹp và áp bức của chế độ Thổ ty Lang đạo, thực dân và phong kiến, nhưng họ đã đoàn kết, vượt qua những gian khổ trong cuộc sống, từ khi có đảng lãnh đạo, nhất là trong 2 cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân dân xã Cán Khê đã cùng nhân dân cả nước thể hiện được sức mạnh to lớn, tinh thần đoàn kết keo sơn, giúp đỡ và tạo điều kiện cùng nhau sát cánh đánh đổ chế đổ phong kiến, đánh thắng 2 đế quốc xâm lược, bằng chiến thắng điện biên phủ “ Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và đại thắng mùa xuân 1975 bằng chiến dịch Hồ chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền nam thống nhất đất nước Non sông thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, năm 1986 thực hiện công cuộc đổi mới, do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đến nay các hoạt kinh tế, văn hóa xã hội, hoạt động của hệ thống chính trị đã có bước chuyển biến tích cực, bộ mặt của làng quê Cán Khê thay đổi nhanh chóng, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, giá trị sản xuất năm sau cao hơn năm trước, năm 2013 đạt 75 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 18%, giá trị thu nhập bình quân đạt 13,2 triệu/người/ năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng phát triển. Chất lượng giáo dục phát triển toàn diện, chất lượng dạy và học ngày được nâng cao, địa phương không còn người không biết chữ, xã có 3 cấp học, ngành học : Cấp học mầm non, cấp học tiểu học, cấp học trung học cơ sở, là địa phương đã hoàn thành phổ cấp giáo dục bậc tiểu học, THCS và phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, hàng năm được giữ vững. Tỷ lệ học sinh lên lớp hàng năm đạt từ 98 -100% trở lên; tỷ lệ học sinh thi đậu trung học phổ thông đạt 99%; tỷ lệ vào học các trường THCN, cao đẳng, đại học hàng năm đạt trên 60%; tỷ lệ lao động nông thôn có chứng chỉ đạt trên 20%; đổi ngũ cán bộ cấp xã đã đạt chuẩn theo quy định: Trình độ cao đẳng, đại học 55%; trung cấp 45%; có 70% cán bộ công chức có trình độ trung cấp lý luận. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu được chú trọng, có trạm y tế cấp xã, có 2 bác sĩ, 3 y sĩ, đủ trình độ chuyên môn chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân; mạng lưới y tế bố trí mỗi thôn đều có 01 y tá hoạt động có hiệu quả; tỷ lệ hộ được dùng nước hợp vệ sinh đạt 100%; xây dựng đời sống văn hóa có nhiều tiến bộ khởi sắc, mỗi thôn đều có nhà văn hóa, đội văn nghệ thường xuyên luyện tập và giao lưu; có sân bóng đá, bóng chuyền thường xuyên luyện tập; các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tương tương thân, tương ái luôn được chăm lo và thực hiện tốt các chế độ chính sách của đảng và nhà nước; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn đảm bảo, là địa phương không có tệ nạn xã hội, không có nghiện hút; lực lượng dân quân tự vệ luôn trực sẵn sàng chiến đấu, đảm bảo cơ động nhanh, sử dung thông thạo vũ khí, khí tài; Hệ thống chính trị từ cấp xã đến cấp thôn hoạt động có hiệu quả, chất lượng, Đảng bộ có 16 chi bộ Đảng, trong đó 13 chi bộ nông thôn, 3 chi bộ trường học, không có điểm trắng. Quần chúng nhân dân luôn tuyệt đối tin tưởng vào chủ trương đường lối của đảng, chính sách pháp luật nhà nước, đồng thuận đoàn kết chung tay xây dựng quê hương.
Thực hiện Nghị định 72/CP ngày 18/11/1996 về việc chia tách huyện Như Xuân thành hai huyện; Như Xuân và huyện Như Thanh, Cán Khê thuộc huyện Như Thanh, hiện nay Cán Khê có 13 thôn.
Một số hình ảnh Lễ phát động xây dựng nông thôn mới
I. Giai đoạn trước năm 1930 đến cách mạng tháng 8 - 1945.
Cái tên Cán khê ra đời tự bao giờ không ai còn nhớ rõ, khi châu Như ra đời chưa thấy xuất hiện tên gọi Cán Khê, mà vẫn là một vùng đất thuộc Mường Lân Ru, theo các cụ cao niên kể lại, tên gọi Cán Khê ra đời rất sớm, phải từ những năm cuối của thế kỷ XIX, lúc đó Cán Khê (bao gồm cả Xuân Thọ hiện nay) thuộc tổng Xuân Du, châu Như Xuân. Từ đó cho đến năm 1945 cái tên Cán Khê mới thường xuyên được gọi, khi ấy cán khê có 24 làng, mỗi tên làng được nhân dân dùng hình tượng của những loài cây và con vật đặc trưng để đặt tên như : Làng Ngọc Dẻ, Đồng Sảng, Đồng Cun, Cây Sú, Đồng Riềng, Đồng Chèo, Đồng Chùa, Trại Mới, Trại Cạn, Đồng Chiêm, Đồng Lừu, Đồng Đớn, Đồng Nhòng, Hom Đong, Đồng Tri, Hom Chự, làng Rãy, Đồng San, làng Sen, Ngọc Bôn, làng Đồng Trầu, Cây Si (sau năm 1965 còn được gọi là làng Ngọc Đông), Cây Chanh (còn được gọi là làng Ngọc Nam) và làng Mó. Mỗi làng lúc đó chỉ có năm đến bảy hộ, có làng chỉ có một hộ như làng Rãy.
Năm 1989 xã Cán Khê chia tách thành 2 xã (xã Cán Khê, xã Xuân Thọ) ba làng Cây Chanh, làng Mó, Cây Si (Ngọc Đông) thuộc xã Xuân Thọ, hiện nay Cán Khê còn lại 23 làng. Sau khi chia tách, sát nhập nhiều lần, Cán khê còn 13 thôn từ thôn 1 đến thôn 13, bởi sáp nhập từ 23 làng .
Là vùng đất nhiều đồi núi, lợi thế chiến lược, là địa phương tiếp giáp nhiều xã trong vùng, tổ chức đảng cấp trên phân công cán bộ về gây dựng cơ sở cách mạng tại địa phương. Nhiều tầng lớp nhân dân đã được giác ngộ cách mạng, nòng cốt là thanh niên các dân tộc, đ/c Phạm Văn Tịch (người làng đồng chùa) là người đầu tiên của địa phương, tích cực tham gia các hoạt động, vận động nhân dân tham gia các tổ chức của đảng và là người đảng viên cộng sản đầu tiên của địa phương. Cùng với phong trào cách mạng Việt Nam ngày 19/8/1945 dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Sỹ Oánh, đ/c Phan Ngự (Cán bộ của tỉnh phân công về địa phương) cùng các lực lượng cách mạng nhân dân địa phương nổi dậy cướp chính quyền về tay nhân dân, thu ấn tín, giấy tờ của lý trưởng và một số chức sắc của chế độ phong kiến tại Cán Khê, trong khí thế cách mạng của cả nước nói chung và nhân dân Cán Khê nói riêng ngày 19/8/1945 dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, dưới sự trực tiếp chỉ huy của ông Phạm văn Tịch, ông Phan Ngự nhân dân xã Cán Khê cùng với nhân dân xã Xuân Du bằng gây gộc, mã tấu, giáo, gươm và vũ khí thô sơ kéo quân vào Bến Sung để hợp nhất quân dân cả huyện để cướp chính quyền phong kiến, khi đến dốc Nổ Đó (Đất Phượng Nghi ngày nay) bị các thế lực chưa chịu khuất phục lực lượng cách mạng chúng chống trả quyết liệt, nhưng chúng đã bị quân dân Cán Khê- Xuân Du kiên cường chiến đấu giành thắng lợi, hòa cùng đoàn quân cách mạng của huyện giành chính quyền về tay nhân dân. Thời điểm này ông Phạm Văn Tịch làm Chủ tịch lâm thời ủy ban kháng chiến xã Cán Khê.
II. Giai đoạn đến 1945- 1954.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với chính quyền các cấp, Uỷ ban lâm thời xã Cán Khê được củng cố và đi vào hoạt động ổn định và điều hành các hoạt động xã hội theo thể chế của Chính quyền dân chủ cộng hoà. Những khó khăn chồng chất của thời gian này đặt ra cho Chính quyền phải tìm cách giải quyết giặc đói và giặc dốt (Lúc này gần như 100% nông dân không biết chữ), bên cạnh đó một số Thổ ty Lang đạo phản động cấu kết với các thế lực phản động bên ngoài ngấm ngầm củng cố lực lượng chống phá cách mạng non trẻ ở địa phương, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát động nhân dân vạch trần âm mưu của kẻ thù, các âm mưu chống phá cách mạng đều bị dập tắt.
Năm 1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc diệt giặc dốt, Phong trào bình dân học vụ, tại các làng bản đã nhanh chóng được hình thành và đi vào hoạt động và đã thu hút được tất cả các già, trẻ, gái trai nô nức tham gia học chữ với phương châm“Người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, người biết chữ nhiều dạy cho người biết chữ ít ”. Người đầu tiên ở địa phương đứng ra dạy chữa là Ông: Quách Văn Môn ( Người làng hom đong, Sau này phụ trách phòng giáo dục như xuân nghỉ hưu) và một số cán bộ đoàn thể của huyện phân công về địa phương, lúc này ở địa phương cơ bản giải phóng được nạn mù chữ.
Nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ cho địa phương chính quyền lâm thời xã đã cử nhiều quần chúng ưu tú đã qua thử thách đi dự các lớp tập huấn, huấn luyện ngắn ngày để về đào tạo cán bộ cốt cán cho Đảng như: ông Bùi Văn Nhất (Làng Đồng Nhòng), Ông Hà Văn Chất ( Làng Ngọc Bôn), ông Phạm Văn Tịch (Làng Đồng Chùa), ông Quách Văn Tiết, Quách văn Nậu (Làng Hom Đong), ông Phạm VănVượng (Làng Đồng Chùa), ông Vi Ký Hợi, ông Hà Văn Chiêu, Ông Hà Kiến An( Làng Đồng San)…và nhiều quần chúng ưu tú khác.
Bên cạnh nạn giặc dốt là giặc đói làm cho cuộc sống người nông dân địa phương vô cùng khốn khổ, Đảng, chính quyền non trẻ địa phương đã phát động nhân dân các dân tộc tích cực lao động sản xuất, chăn nuôi, khai thác các tiềm năng đất đai ổn định cuộc sống. Thành lập các tổ phụ nữ, nông hội, các tổ tương ái giúp nhau lúc khó khăn, kêu gọi các hộ có điều kiện nấu cơm, nấu cháo phát chẩn cho những gia đình thực sự khó khăn, những người tha phương đến địa bàn… và rất nhiều việc làm hết sức ý nghĩa giúp nhau lúc hoạn nạn, từng bước giải quyết được nạn đói.
Tháng 6/1946 một sự kiện chính trị quan trọng diễn ra, lần đầu tiên cử tri Cán Khê, cùng với cử tri cả nước được cầm lá phiếu bầu cử những đại biểu ưu tú, tiêu biểu của nhân dân vào cơ quan HĐND, chính quyền nhân dân các cấp, trong thời khắc được làm chủ nhân dân tràn đầy niềm vui sướng, cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên khắp nẻo đường quê hương. Cán Khê đã có hơn 90% cử tri đi bầu cử.
Tháng 7/1946 kỳ họp đầu tiên của HĐND xã bầu ra Uỷ ban hành chính thay thế uỷ ban lâm thời, từ lúc này được gọi UBHC xã Cán Khê. Thời kỳ này ông Phạm Văn Tịch được bầu làm chủ tịch uỷ UBHC của xã Từ năm 1946- 1948 (Khóa I), ông Quách Văn Nậu (Người làng Hom Đong) làm chủ tịch UBHC xã từ 1948- 1949 (Lúc này Đảng viên đang sinh hoạt cùng với chi bộ Xuân Du).
Bước đầu chính quyền địa phương chính thức đi vào hoạt động, từ phương thức sản xuất, cách làm ăn lạc hậu, điều kiện kinh tế của địa phương còn muôn vàn khó khăn, Hoạt động của các tổ chức đoàn thể được hình thành nhưng hoạt động hiệu quả chưa cao, người phụ trách tuy nhiệt tình, hăng hái nhưng thiếu kiến thức và kỹ năng hoạt động, vận động. Tháng 8/1949 Đảng bộ huyện Như Xuân ra đời đã có nhiều chủ trương, giải pháp tiến hành lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, đời sống vật chất tinh thần nhân dân được cải thiện, các hình thức tập hợp nhân dân giúp nhau làm ăn kinh tế được hình thành và phát triển.
Tháng 3/1950 thực hiện chủ trương của Đảng bộ Huyện Như Xuân, chi bộ Đảng Cán Khê được thành lập ( trên cơ sở được chia tách từ chi bộ Xuân Du) trực thuộc Đảng bộ Như Xuân, Chi bộ Cán Khê có 12 đảng viên, trong đó có 3 Đảng viên dự bị, Đảng bộ Như Xuân chỉ định Đồng chí Trần Doãn Sừ (người quê Nông Cống) ủy viên dự khuyết BCH Đảng bộ Như Xuân làm Bí thư Chi bộ, Ông Quách văn Tiết làm phó bí thư, Địa điểm thành lập Chi bộ tại nhà ông Phạm Văn Dưỡng (Tức ông Mật) làng Đồng Chùa (thôn 12 ngày nay) Ông Hà Kiến An (Làng đồng san) làm chủ tịch UBHC.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ đảng, chính quyền được cũng cố vững chắc để điều hành đường lối kháng chiến kiến quốc của Đảng đã dành nhiều thắng lợi. Các đoàn thể cứu quốc ở địa phương hoạt động ngày càng hiệu quả, thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực thi đua lao động sản xuất phát triển kinh tế gia đình và ổn định kinh tế xã hội tại địa phương.
Cuối năm 1950 chi bộ Đảng Cán Khê tiến hành Đại hội lần thứ nhất, đ/c Trần Doãn Sừ tiếp tục được bầu làm bí thư chi bộ, Đ/c Quách văn Tiết làm PBT chi bộ. Ông Hà Kiến An làm chủ tịch UBHC (1950 – 1957 ) thời kỳ này đảng, chính quyền địa phương tập trung chỉ đạo nhân dân tích lao động sản xuất phát kinh tế, củng cố chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị, động viên nhân dân, thanh niên tham gia quân đội, tham gia dân công và TNXP góp phần cùng cả nước đánh đổ đố quốc pháp và bọn tay sai phản động chống phá cách mạng.
Ngày 7/5/1954 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” đã kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ, ác liệt. Miền bắc hoàn toàn giải phóng.
III. Giai đoạn từ 1954 - 1975:
Chiến thắng Điện Biên Phủ toàn thắng, kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ và ác liệt. Miền bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng, quân và dân ta đã làm nên “Vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” của dân tộc, “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”. Cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới .Cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: "Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam’’.
Hoà chung vào dòng thác cách mạng, Chính quyền và nhân dân Cán Khê phấn đấu hoàn thành cải cách dân chủ, vận động nhân dân vào hợp tác hóa nông nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, hoàn thành sứ mệnh lịch sử chung tay cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng. Nắm chắc tình hình, xác định rõ đối tượng, chi bộ đã tổ chức cho nhân dân học tập nâng cao nhận thức về chủ trương đường lối của Đảng, bồi dưỡng đội ngũ cốt cán đến làng bản thực hiện cải cách ruộng đất, phát động nhân dân đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất nhà cửa, trâu bò và công cụ sản xuất cho dân nghèo. Hướng dẫn cho nhân dân làm ăn, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, thực hành tiết kiệm, thành lập các tổ đổi công, nhõn dân đã tự nguyện đóng góp cổ phần bằng trâu bò, cày bừa, thóc giống cho thực hiện hợp tác hoá nông nghiệp. Con đường làm ăn tập thể bắt đầu, từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân của đất nước, nhân dân đã hăng hái trong lao động sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất phúc lợi xã hội, chống các hủ tục lạc hâu, mê tín dị đoan, xây dựng đời sống văn hóa mới,
Hệ thống chính trị của xã Cán Khê ngày càng hoạt động hiệu quả, chất lượng, đội ngũ đảng viên ngày một phát triển, đứng trước yêu cầu nhiệm vụ mới, được sự đồng ý của Đảng bộ huyện Như Xuân, tháng 3/1957 Đảng bộ Cán Khê ra đời, đánh dấu mốc lịch sử chính trị quan trọng đồng thời cũng đặt ra cho đảng bộ nhiệm vụ hết sức quan trọng đó là xây dựng Cán Khê ngày vững mạnh về mọi mặt: phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh.
Năm 1961- 1962 các HTX nông nghiệp ra đời (HTX cấp thấp, HTX cấp cao) lúc này các HTX chủ yếu mỗi làng hoặc ghép một số làng thành lập một HTX, và có15 HTX hoạt động.
Năm 1964 theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đưa nhân dân miền xuôi đi xây dựng kinh tế mới, phát triển văn hóa miền núi. Nhân dân một số xã Đông Anh, Đông Khê, Đông Hòa thuộc huyện Đông Sơn đã lên định cư, khai hoang, lúc này xã Cán Khê có thêm 2 làng (Xuân lai và hố tre). Các HTX tồn tại đến năm 1976. Thời kỳ này đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã nhà đã có nhiều cố gắng trong lao động sản xuất phát triển kinh tế, điều kiện kinh tế trong nhân dân có phần được cải thiện, nhưng do chiến tranh kéo dài, trình độ lao động sản xuất chưa phát triển, cơ chế quan liêu bao cấp kéo dài do đó đời sống nhân dân vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
Năm 1964-1966 Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra ngày càng ỏc liệt, cục diện ở chiến trường miền nam quân ta đang chiếm ưu thế, hòng cứu vãn tình thế ở miền nam, đế quốc mỹ leo thang chiến tranh đánh phá miền bắc, nhân dân cán khê cùng với quân dân miền bắc quyết tâm chống trả quyết liệt không cho chúng thực hiện ý đồ của tổng thống Mỹ Giôn sơn tuyên bố “ Đưa miền bắc trở lại thời kỳ đồ đá”.
Với khẩu hiệu “ Chắc tay súng, vững tay cày” vừa tăng gia sản xuất vừa cầm súng đánh giặc, ngày đêm lớp lớp thanh niên thi đua lao động sản xuất, không khí sục sôi, phong trào “ 3 đảm đang, 3 sẵn sàng” Khẩu hiệu “ Hậu phương thi đua với tiền tuyến” “ Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” “Tất cả để đánh thắng giặc mỹ xâm lược”. Chi viện cho chiến trường Miền nam sức người, sức của, vừa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc bầu trời quê hương, bảo vệ tuyến đường huyết mạnh đi qua địa phương (Đường 15 B), vừa phải phát triển kinh tế, lực lượng dân quân, thanh niên và nhân dân địa phương đào công sự, xây dựng các chốt (ở Đông xưa và đông gạo) sẵn sàng giáng trả bọn giặc trời, ngày 7 tháng 3 năm 1966 quân dân Cán Khê phối hợp bộ đội chủ lực, bằng súng trường đã bắn rơi chiếc máy bay phản lực của đế quốc mỹ, nhân dân địa phương còn cùng với thanh niên xung xong ngày đêm trực sẵn sàng thông đường cho xe ra tuyền tuyến, có nhiều gia đình vì miền nam ruột thịt, chỉ còn cánh cửa duy nhất để chống rét khi đêm đông giá lạnh, nhưng đã tình nguyện đưa ra lót đường lúc mưa rơi đường trơn lầy lội để chuyến xe kịp thời ra tuyền tuyến. Sau những chiến công của quân dân địa phương đã được Chủ tịch Hồ chí Minh tặng Huân chiến công hạng 3, hai bằng khen của TW đoàn, 5 giấy khen của nhà nước, tặng cờ luân lưu quyết thắng, Với ý chớ xẻ dọc trường sơn đi cứu nước, líp líp thanh niên Cán Khê đã tình nguyện tòng quân lên đường chiến đấu, góp phần cùng cả dân tộc làm nên đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước.
Trong 2 cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, nhân dân Cán Chê đã cùng góp sức chi viện cho tiền tuyến hàng trăm tấn lương thực, đã có 310 người con quê hương tình nguyện lên đường tham gia chiến đấu ở các chiến trường, có 68 người con của quê hương anh dũng hy sinh, có 48 thương bệnh binh để lại phần xương máu nơi chiến trường và còn biết bao các anh, các chị là TNXP, dân công hỏa tuyến dành cả tuổi thanh xuân ở nơi chiến trường, họ hy sinh, cống hiến vì nền độc lập dân tộc, cho đất nước hôm nay nở hoa kết trái.
Năm 2002 xét công lao đóng góp của đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã cán khê trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Đảng, nhà nước đã phong tặng danh hiệu cao quý “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Theo chủ trương mới của nhà nước xét truy tặng bà mẹ việt nam anh hùng, hiện nay cán khê đã hoàn tất hồ sơ đề nghị truy tặng “Bà mẹ việt nam Anh Hùng” cho 2 mẹ.
IV. Giai đoạn từ 1976 - 1985:
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế trở thành nhiệm vụ hàng đầu của toàn đảng và toàn dân ta, khắc phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh. Ở thời kỳ này Đảng bộ, Chính quyền Cán Khê có chủ trương tháp nhập các HTX nhỏ thành lập các HTX quy mô lớn, hình thành 4 HTX gồm: HTX Thành Đồng (gồm: Ngọc Dẻ, Đồng Xảng, Trại Cạn, Đồng Lừu, Xuân Lai); HTX Đồng thắng (gồm: hom đong, đồng tri, hom chự, đông san, làng rãy, hố tre); HTX Liên Thành (gồm: Đồng Sen, Trại Mới, Đồng Trầu, Ngọc Bôn, Đồng Chùa, Đồng Tâm); HTX Đồng Xuân gồm: Cây Chanh, làng Mó, Cây Si (Ngọc Đông) nay thuộc xã Xuân Thọ. Đảng bộ xác định tiếp tục củng cố các HTX nông nghiệp, phát triển kinh tế xã hội, củng cố hạ tầng cơ sở như các công trình thủy lợi, Chỉ đạo nhân dân áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, tăng năng xuất, phát triển chăn nuôi, củng cố hoạt động tín dụng. Năm 1981 đảng nhà nước ban hành chỉ thị 100 khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, từng bước xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, đã phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, được nhân dân hưởng ứng và nhanh chóng đi vào cuộc sống, kinh tế thời kỳ này của nhân dân địa phương phát triển khá ổn định, Sau nhiều lần sáp nhâp, chia tách, thực hiện chủ trương của đảng bộ tháng 9/1986, 3 HTX (Thành đồng, Đồng thắng, Liên thành) sáp nhập thành một HTX toàn xã, lấy tên HTX Thống Nhất.
V. Giai đoạn từ 1986 - 2005:
Nghị quyết đại hội lần thứ IV của đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, nhất là đổi mới tư duy về kinh tế: xóa bỏ chế độ quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, chủ trương đúng đắn của đảng, làm thay đổi tư duy trong cán bộ, nhân dân, đồng thời nhà nước ban hành nghị định 117 khoán đất sản xuất lâu dài ổn định cho nhân dân, để nhân dân tự chủ trên diện tích được giao. Năm 1997 mô hình HTX nông nghiệp chính thức kết thúc, các đội sản xuất được thay đổi tên gọi “Thôn ”, dưới sự quản lý trực tiếp của chính quyền xã, hoạt động theo chức năng quyền hạn của thôn do nhà nước quy định, và có trách nhiệm tham mưu trực tiếp cho chi bộ đảng và chủ tịch UBND xã về công tác quản lý xã hội ở khu dân cư. Đây là thời kỳ thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần nghị quyết đại hội VII và đại hội VIII, trong thời kỳ này đảng bộ và nhân Cán Khê nói riêng cả nước nói chung đã giành được những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt, quan hệ SX phù hợp với trình độ SX, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, tốc độ phát triển kinh tế có bước tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhất là lĩnh vực SX nông nghiệp, đặc biệt là SX lương thực, thời điểm này bình quân lương thực đạt 420kg/gười/năm, tốc độ phát triển đạt từ 8-10%/ năm. Các cơ sở kinh tế kỹ thuật hạ tầng được đầu tư : Đường điện được đầu tư XD bằng nguồn đóng góp của nhân dân (100%), trường học từ nguồn đóng góp nhân dân, nguồn hỗ trợ của nhà nước, địa phương đã ổn định về cơ sở vật chất, trạm xá được nâng cấp, đội ngũ cán bộ trạm có bác sĩ và đội ngũ y sĩ có trình độ trong khám, chữa bệnh cho nhân dân. Hệ thống chính trị từ xã đến thôn hoạt động ngày càng nâng cao về chất lượng, đội ngũ cán bộ cấp xã có 60% đạt chuẩn theo quy định.
VI.Từ 2005 đến nay.
Từ tháng 3/2005 đến nay Đảng bộ Cán Khê tiến hành 2 kỳ đại hội (khóa XX và khóa XXI, nhiệm kỳ 2005 – 2010, 2010 - 2015) Thực hiện nghị quyết Đại hội cơ sở hạ tầng kinh tế, phúc lợi xã hội được đầu tư, tăng cường, những tiềm năng lợi thế của địa phương được khai thác hợp lý, hiệu quả; tốc độ phát triển kinh tế đạt 14% đến 18% ( tăng 2% so với mục tiêu ĐH khóa XX, Tăng 4% so với mục tiêu ĐH khóa XXI) giá trị bình quân thu nhập đạt 6 triệu/người/năm ở khóa XX, tại thời điểm năm 2013 tổng giá trị thu nhập từ các ngành nghề đạt 75 tỷ đồng đạt 120% mục tiêu ĐH khóa XXI đề ra, giá trị bình quân đạt 13,2 triệu/người ở năm 2013; cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực, cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ, năng xuất bình quân đạt 50 – 52 tạ/ha, bình quân lương thực đạt 500 kg/người/năm.
Tập trung lãnh đạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. Khai thác mọi nguồn lực tại địa phương để thúc đẩy phát triển kinh tế. Đưa nhanh các loại cây, con có năng xuất, chất lượng cao vào sản xuất trên cả 3 vụ trong năm. Riêng năm 2013 nhân dân đã tăng cường đưa các loại giống lúa lai có năng xuất, chất lượng cao vào gieo cấy đạt 95% DT trở lên, sử dụng phân viên nén đạt 98% DT trở lên, cây Mía đường được xác định là một trong những cây phát triển kinh tế mũi nhọn của địa phương, năm 2005 có 80ha, năm 2013 đã phát triển lên 150ha; kinh tế lâm nghiệp cũng được đảng bộ và nhân dân chú trọng, với lợi thế đất lâm nghiệp, hiện nay toàn xã có trên 600ha luồng, trên 400ha keo các loại, bên cạnh đó nhân dân còn trồng trên 30ha cây cao su đang phát triển khá tốt, một số hộ đã chuyển một số đất kém hiệu quả cải tạo sang trồng các loại cây ăn quả như chanh quả, vải thiều, nhãn, hồng vv… hàng năm thu nhập hàng chục tỷ đồng; về chăn nuôi nhân dân đã tích cực phát triển, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, các gia trại chăn nuôi ngày càng được phát triển khá như gia trại nuôi lợn, gà, dê.. hàng năm thu từ chăn nuôi trên 10 tỷ đồng
Lĩnh vực văn hoá xã hội: Được chú trọng, phát triển, tăng cường các hoạt động văn hóa, văn nghệ, TDTT, hàng năm đều tổ chức các hoạt động đậm sắc màu văn hóa các dân tộc, hiện tại các khu dân cư đều có sân chơi thể thao, có đội văn nghệ thường xuyên luyện tập và giao lưu, hàng năm có từ 70% gia đình đạt gia đình văn hóa, có 50% gia đình ông, bà, cha mẹ mẫu mực, hiện nay có 10/13 thôn, 3 trường học đã khai trương, được công nhận làng văn hóa, cơ quan văn hoá; các chính sách xã hội được chăm lo nhất là các phong trào tương thân tương ái, tính đến năm 2013 từ nguồn hỗ trợ của cấp trên, ủng hộ nhân dân địa phương và vốn tự có của gia đình đã xây dựng nhà đại đoàn kết cho 146 hộ, tham gia ủng hộ các đợt do mặt trận phát động đều đạt 100% KH; các ngày lễ tết thường xuyên thăm hỏi, động viên các gia đình chính sách, các gia đình quân nhân tại ngũ, làm tốt các chính sách hậu phương quân đội, các chính sách đối với người có công; công tác giáo dục ngày càng phát triển, chất lượng, số lượng có chiều hướng phát triển ngày càng cao, tỷ lệ lên lớp ở các cấp học đạt từ 99,6% trên lên, tỷ lệ học sinh vào học PTTH đạt 99%, tỷ lệ con em địa phương đậu vào các trường TC,CĐ,ĐH hàng năm đạt trên 60%, cả 3 cấp học đều được công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục, hàng năm được giữ vững; trường tiểu học cán khê được công nhận trường “Chuẩn quốc gia mức độ I ” năm 2013; công tác y tế được thường xuyên chăm lo, năm 2009 được công nhận xã chuẩn quốc gia về y tế, công tác vệ sinh môi trường thường xuyên được lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là trong nhiệm vụ tuyên truyền được thực hiện có hiệu quả, hiện nay các hộ gia đình có hố rác tự xử lý đạt trên 60%, xây dựng được con đường tự quản ở các khu dân cư, hàng tháng được tu sửa, quyét dọn sạch sẽ, khu trung tâm xã đã có đội tự quản xử lý môi trường, có hố chứa rác thải công cộng, các nghĩa trang được quy hoạch, người chết được chôn cất đúng quy định vv… năm 2013 xã đã đạt tiêu chí về môi trường (Tiêu chí số 17); Công tác an ninh - quốc phòng luôn được chú trọng, nhất là công tác tuyên truyền pháp luật, nhân dân ý thức ngày càng cao trong công tác phòng chống tội phạm, các tai tệ nạn xã hội, việc đảm bảo an toàn giao thông, trật tự an toàn xã hội, trong những năm qua địa bàn không có tệ nạn xã hội, không có người nghiện ma túy, không có vụ việc phức tạp, tình hình khiếu kiện trong nhân dân giảm cơ bản; hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng được nâng cao, đội ngũ cán bộ xã đạt chuẩn theo quy định, năng lực hoạt động ngày càng đáp ứng tốt yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đội ngũ cán bộ cấp thôn bản từng bước được trang bị kiến thức và chuẩn hóa, đủ điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ; đoàn kết phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương luôn được phát huy và thực hiện có hiệu quả, thực hiện tốt vai trò:“ nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ”Phương châm “dân biết, dân làm, dân hưởng thụ”do đó trong công cuộc XDNTM, tuy địa phương mới thực hiện từ năm 2011, do được tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, nhân dân nắm và hiểu đầy đủ trách nhiệm của mình trước công cuộc đổi mới của đảng, đổi mới từ cách nghĩ đến việc làm, đã tích cực thực hiện đạt hiệu quả cao cả chất và lượng, năm 2012 địa phương đã hoàn thành công tác dồn điền đổi thửa trên phạm vi toàn xã, làm đường bê tông được 14km, nhân dân đóng góp trên 5 tỷ đồng, bên cạnh đó còn một số thôn cơ bản hoàn thành một số đoạn đường cấp phối, cả xã đắp được 10km đường nội đồng, ngoài ra nhân dân còn tích cực chính trang nhà cửa, cải tạo vườn tạp, đóng góp XD cơ sở hạ tầng hàng năm hàng trăm triệu đồng, tính đến cuối năm 2013 địa phương đã đạt 7/19 tiêu chí quốc gia về XDNTM.
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 786/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Thanh Hóa (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của xã Xuân Thọ vào xã Cán Khê. Sau sáp nhập, xã tiếp tục kiện toàn và thành lập ban chỉ đạo xây dựng NTM, ban hành các chủ trương và nghị quyết chuyên đề về xây dựng NTM để triển khai thực hiện các tiêu chí. Ở cấp thôn, 18 ban phát triển thôn được thành lập để triển khai hoàn thiện hoặc nâng cao chất lượng các tiêu chí NTM theo chiều sâu. Đồng thời, giao trách nhiệm phụ trách, theo dõi những tiêu chí liên quan cho từng tổ chức đoàn thể trong xã. Cùng với đó, Đảng ủy, HĐND, UBND xã Cán Khê cũng đẩy mạnh tuyên truyền để Nhân dân đồng thuận, ủng hộ và chung tay xây dựng NTM, ủng hộ nguồn lực xây dựng hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, phong trào hiến đất làm đường, đóng góp ngày công làm thủy lợi, xây dựng đường giao thông nông thôn được xã triển khai hiệu quả.
Từ năm 2020, chính quyền xã đã vận động Nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cải tạo vườn tạp... đưa cây trồng có giá trị kinh tế cao vào sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao; khuyến khích Nhân dân phát triển kinh tế trang trại, gia trại... Xã đẩy mạnh tích tụ, tập trung đất đai, hình thành được nhiều mô hình sản xuất năng suất, chất lượng cao. Đến nay, nhiều mô hình phát triển sản xuất đã mang lại thu nhập cao cho người dân. Ngoài nông nghiệp, xã Cán Khê còn phát triển các cơ sở may công nghiệp, tạo việc làm cho người lao động. Đồng thời, các ngành nghề vận tải, xây dựng, gò hàn, mộc dân dụng, điện dân dụng, sửa chữa ô tô, xe máy... cũng khá phát triển.
Hiện thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn xã đạt 46,01 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 3,6%, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được nâng lên. Kinh tế phát triển chính là điều kiện để xã huy động các nguồn lực xây dựng NTM. Theo thống kê của UBND xã Cán Khê, từ năm 2019 đến nay, địa phương đã huy động hơn 418 tỷ đồng cho xây dựng NTM. Toàn bộ đường giao thông liên xã, đường huyện qua địa bàn xã, với tổng chiều dài gần 8 km đã được đầu tư mở rộng, nâng cấp, mặt đường được cứng hóa bằng nhựa hoặc bê tông xi măng. Hơn 28,7 km đường giao thông liên thôn, đường làng, ngõ xóm và đường nội đồng cũng được bê tông kiên cố, đáp ứng nhu cầu đi lại, sản xuất của Nhân dân. Cơ sở vật chất văn hóa, trường học, hệ thống điện, thông tin truyền thông đều được đầu tư xây dựng kiên cố.
Những ngôi nhà khang trang, những tuyến đường với hệ thống cây xanh, cảnh quan môi trường nông thôn được quan tâm, đang mang lại diện mạo mới cho vùng quê Cán Khê. Ngày 03/4/2022 xã Cán Khê đã được Chủ tịch UBND tỉnh ban hành quyết định công nhận đạt chuẩn NTM.
Xã cán khê có lịch sử hình thành và phát triển hơn một trăm năm, trải qua những thăng tầm cùng với chiều dài lịch sử của dân tộc, cùng chung cảnh sống kiếp đời nô lệ, lầm than cơ cực của người dân mất nước dưới chế độ phong kiến và thực dân, từ khi có đảng, bác Hồ lãnh đạo, nhân dân các dân tộc xã Cán Khê cùng với nhân dân cả nước đánh đổ chế độ phong kiến, đánh đánh đuổi 2 đế quốc lớn xâm lược, non sông thu về một mối, thống nhất đất nước, cùng cả nước bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình XD và phát triển quê hương có nhiều thuận lợi và thời cơ, song những khó khăn thách thức cũng không ít, nhìn lại chặng đường lịch sử đấu tranh, xây dựng chúng ta tự hào về con người Cán Khê đã đoàn kết, thủy chung, son sắt một lòng với Đảng, Bác Hồ kính yêu với quê hương đất nước, giàu long yêu nước, thương nòi, thông minh, sáng tạo, dũng cảm cùng quân dân cả nước làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc, Cán Khê có được diện mạo như ngày hôm nay, được sống trong hòa bình, độc lập tự do, nhân dân các dân tộc Cán Khê ghi lòng, tạc dạ khắc ghi công ơn to lớn của Đảng, Bác Hồ vĩ đại đã chỉ đường soi lối để dân tộc Việt Nam nói chung, nhân dân các dân tộc Cán Khê nói riêng có cuộc sống ấm no tư do, hạnh phúc. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Cán Khê nguyện đi theo Đảng, thực hiện tốt chủ trương nghị quyết của đảng, tiếp tục phấn đấu phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn, bền vững hơn cùng sánh vai với các xã trong huyện góp phần cùng với nhân dân huyện Như Thanh và nhân dân cả nước thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu: xã hội dân chủ, công bằng, văn minh./.
Vi Đồng
Theo Lịch sử Đảng bộ xã Cán Khê